Khởi đầu Một-Lần
Ba ngàn năm trăm trước, Kinh Thánh nói về khởi đầu của vũ trụ chúng ta ở một thời điểm.[8] Từ thời Aristotle, tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đã tin rằng vũ trụ và mọi điều trong đó đã luôn tồn tại. Sự khác biệt rõ rệt này giữa Kinh Thánh và khoa học dẫn đến quan điểm rằng Kinh Thánh, bao gồm những tường thuật về sự sáng tạo của nó, không chính xác về mặt khoa học.
Kinh Thánh không chỉ nói rằng vật chất và năng lượng có một khởi đầu, nhưng nó cũng cho chúng ta biết rằng thời gian và không gian cũng được tạo ra. Sách Hê-bơ-rơ trong Tân Ước nói với chúng ta rằng,
Vậy thì, qua nhiều thế kỷ, niềm tin khoa học chiếm ưu thế là vũ trụ tồn tại y nguyên và chưa từng có khởi đầu. Và nếu không có khởi đầu, vì sao chúng ta lại cần một Đấng sáng tạo?
Nhưng khi Edwin Hubble khám phá ra rằng vũ trụ đang giãn nở, các nhà khoa học nhận ra rằng vũ trụ phải bắt đầu từ một điểm. Điều này khẳng định những gì Kinh Thánh viết từ hàng ngàn năm trước.
Nhà thiên văn học vĩ đại Fred Hoyle gọi khởi đầu này là “vụ nổ big bang,”và tên gọi này trở nên phổ biến. Kinh Thánh này gọi khởi đầu một-lần này là “sự sáng tạo”.
Kinh Thánh có thể thật sự ngụ ý nói đến một vũ trụ giãn nở khi tuyên bố rằng Đức Chúa Trời “giương các từng trời ra như trại để ở.”[10] Hàng ngàn năm sau Aristotle, các nhà khoa học ngày nay đồng ý rằng vũ trụ của chúng ta thật sự “giương ra” từ một điểm vô hạn nhỏ bé (tính độc nhất).
Bằng chứng mới này về khởi đầu một-lần của vạn vật khiến cộng đồng khoa học kinh ngạc. Ngay cả nhiều người theo thuyết bất khả tri cũng nhận ra sự song hành hiển nhiên giữa Kinh Thánh và khoa học.
Nhà vật lý thiên văn học George Smoot-nhà khoa học đoạt giải Nobel chịu trách nhiệm về thí nghiệm COBE đã khẳng định rằng sự tạo dựng vũ trụ – thừa nhận sự song hành với Kinh Thánh. Mặc dù là một người theo thuyết bất khả tri, Smooth nhận xét,
Thiết kế Hoàn hảo cho Sự sống
Như thể việc có một khởi đầu một lần cho vũ trụ không gây đủ khó khăn cho những người hoài nghi.
Thật vậy, hàng tá những định luật và điều kiện trong vũ trụ của chúng ta cần được điều chỉnh chính xác hoặc chúng ta không thể có mặt ở đây. Ví dụ, nếu trọng lực bị thay đổi chỉ 0,00000000000000000000000000000000000001 phần trăm, thì cả Trái đất lẫn Mặt trời đều không tồn tại được-và bạn sẽ không thể đọc được những dòng này.[13]
Kinh Thánh tuyên bố rõ ràng rằng Đức Chúa Trời đã tạo nên vạn vật để sự sống con người có thể tồn tại được. Nhưng sự khám phá về những sự điều chỉnh chính xác đến vậy đã khiến các nhà khoa học kinh ngạc.
Các nhà khoa học đã kết luận rằng hơn 100 điều kiện của vũ trụ, thiên hà, hệ mặt trời và hành tinh của chúng ta cần được điều chỉnh chính xác-hoặc chúng ta sẽ không thể có mặt ở đây.[14] Smoot so sánh sự điều chỉnh chính xác này với sự chính xác của một người bắn cung bắn một mũi tên từ hành tinh Pluto (cách đây bốn tỉ dặm) và bắn trúng hồng tâm.3
Những ai không tin vào tường thuật sáng tạo của Kinh Thánh về Đấng sáng tạo tối cao gọi tình huống hoàn hảo này là “may rủi”. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học tin rằng xác suất vượt xa sự may rủi. Fred Hoyle thừa nhận,
Cách lý giải thông thường cho những dữ kiện này chỉ ra rằng có một đấng siêu thông minh đã đùa giỡn với vật lý, cũng như hóa học và sinh học, và rằng không có một thế lực tình cờ nào đáng nói đến trong tự nhiên. Con số một người tính toán được từ những dữ kiện này với tôi dường như quá choáng nhợp khiến ta gần như không thể nghi vấn gì về kết luận này.
Mặc dù một số nhà khoa học vẫn tranh cãi rằng chúng ta gặp may, nhà vũ trụ học Edward Harrison phản ứng với những tỉ suất thiên văn học này theo cách khác.
Những người hoài nghi như Stephen Hawking đoán rằng có thể tồn tại những vũ trụ khác và vũ trụ của chúng ta chỉ là một nơi may mắn có mọi điều phối hợp hoàn hảo cho sự sống. Mặc dù không có bằng chứng khoa học nào ủng hộ cho khái niệm có các vũ trụ khác, thuyết đa vũ trụ đã trở thành cách lý giải hàng đầu dành cho những nhà khoa học cố lý giải sự điều chỉnh chính xác theo cách khác hơn là có một Đấng Sáng tạo.
Nhưng nhà vật lý thiên văn Paul Davies, một người theo thuyết bất khả tri, bác bỏ giả thuyết đa vũ trụ. Ông viết, “Một niềm tin như vậy dựa trên đức tin hơn là trên sự quan sát.”[19]
(Xem các nhà khoa học khác kết luận điều gì tại http://www.y-origins.com/index.php?p=quotes.)